Ai ở Mỹ muốn phá thỏa thuận hạt nhân với Iran?

Print Friendly, PDF & Email

Iran-nuclear-deal-1024x576

Nguồn: Jeffrey D. Sachs, “Saying No to the Warmongers,” Project Syndicate, 17/07/2015.

Biên dịch: Nghiêm Hồng Sơn | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Bản hiệp ước nhằm kiềm chế các hoạt động hạt nhân của Iran đạt được ở Vienna đã khiến những kẻ hiếu chiến nổi khùng. Các công dân trên toàn thế giới nên ủng hộ nỗ lực dũng cảm của Tổng thống Mỹ Barack Obama để vượt qua những kẻ hiếu chiến, tâm phục trước việc các bên ký kết không chỉ có Hoa Kỳ mà còn gồm tất cả năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cộng thêm Đức.

Nhiều người trong số những kẻ hiếu chiến đến từ các cơ quan chính phủ của chính quyền Obama. Hầu hết người Mỹ khó nhận ra hoặc hiểu được thực trạng an ninh lâu dài của đất nước họ, nơi mà các chính trị gia được bầu dường như đang lãnh đạo nhưng thực chất là do Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) và Lầu Năm Góc dẫn dắt – một nhà nước thiên về các giải pháp quân sự chứ không phải là ngoại giao cho những thách thức về chính sách đối ngoại.

Từ năm 1947, khi CIA được thành lập, Mỹ đã liên tục thực hiện chính sách nửa bí mật nửa công khai để lật đổ các chính phủ nước ngoài. Trên thực tế, CIA được thiết kế để tránh sự giám sát dân chủ thực sự và cho các vị tổng thống cơ hội “chối bỏ trách nhiệm.” CIA đã lật đổ hàng chục chính phủ ở khắp nơi trên thế giới mà không phải chịu trách nhiệm kể cả ở những nơi đó hay ở nước Mỹ.

Gần đây tôi đã nghiên cứu một thời kỳ hoạt động của CIA trong cuốn sách của tôi có nhan đề To Move the World: JFK’s Quest for Peace (Để chuyển dịch thế giới: Hành trình tìm kiếm hòa bình của Tổng thống Kenedy). Ít lâu sau khi nhậm chức tổng thống năm 1961, Kennedy đã được CIA “thông báo” về kế hoạch của họ nhằm lật đổ chính quyền Fidel Castro. Kennedy cảm thấy bị kẹt: ông nên phê chuẩn kế hoạch xâm lược Cuba của CIA hay phủ quyết nó? Là người mới đến với trò chơi khiếp đảm này, Kennedy đã cố gắng chơi bài nước đôi: cho thực thi kế hoạch nhưng không có sự hỗ trợ của không quân Mỹ.

Cuộc xâm lược dưới sự lãnh đạo của CIA và do một nhóm người Cuba lưu vong tiến hành ở Vịnh Con Lợn là một thất bại quân sự và thảm họa về chính sách đối ngoại, một trong những yếu tố dẫn đến sự kiện khủng hoảng tên lửa ở Cuba vào năm sau. Trong cuộc khủng hoảng tên lửa, hầu hết các quan chức an ninh cấp cao tham mưu cho Tổng thống muốn dùng quân sự để chống lại Liên Xô, một kế hoạch có thể đã kết thúc bằng chiến tranh hạt nhân hủy diệt. Kennedy đã bác bỏ kế hoạch của những kẻ hiếu chiến và chiếm ưu thế trong cuộc khủng hoảng thông qua con đường ngoại giao.

Đến năm 1963, Kennedy không còn tin tưởng vào lời khuyên của quân đội và CIA. Thật vậy, ông đã coi nhiều người được coi là cố vấn của mình là một mối đe dọa cho hòa bình thế giới. Năm đó, ông đã liên tục và khéo léo sử dụng giải pháp ngoại giao để đạt được một bước đột phá trong thỏa thuận hạt nhân với Liên Xô: Hiệp ước cấm thử hạt nhân hạn chế.

Người dân Mỹ đã ủng hộ Tổng thống Kennedy một cách mạnh mẽ và đúng đắn để chống lại những kẻ hiếu chiến. Nhưng chỉ ba tháng sau khi hiệp ước được ký, Kennedy bị ám sát.

Nhìn qua lăng kính lịch sử, công việc chính của các tổng thống Mỹ là đủ chín chắn và khôn ngoan để đối đầu với cỗ máy chiến tranh thường trực này. Kennedy đã cố gắng làm điều đó; nhưng người kế nhiệm ông là Lyndon Johnson thì không và Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến Việt Nam. Jimmy Carter đã cố; Reagan thì không (tổ chức CIA của ông đã gây ra chết chóc và lộn xộn ở Trung Mỹ suốt những năm 1980). Clinton hầu như đã cố gắng (ngoại trừ ở Balkans); George W. Bush thì không và đã gây ra các cuộc chiến và bất ổn mới.

Xét về tổng thể, Obama đã cố gắng kiềm chế những kẻ hiếu chiến, nhưng cũng lại thường xuyên nhượng bộ chúng – bằng cách không chỉ lệ thuộc vào các máy bay không người lái được trang bị vũ khí mà còn tiến hành cuộc chiến tranh bí mật ở Syria, Libya, Yemen, Somalia, và những nơi khác. Obama cũng không thực sự kết thúc được cuộc chiến của Mỹ tại Iraq và Afghanistan; ông thay thế quân đội trên mặt đất bằng các máy bay không người lái, các cuộc không kích, và các nhà thầu “tư nhân.”

Iran chắc chắn là điểm sáng nhất, là một mốc lịch sử đòi hỏi phải được ủng hộ tối đa. Khó khăn chính trị của Obama khi đạt thỏa thuận hòa bình với Iran tương tự như Kenedy khi thiết lập hòa bình với Liên Xô năm 1963. Mỹ đã nghi ngờ Iran kể từ cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979 và cuộc khủng hoảng con tin sau đó, khi các sinh viên Iran bắt giữ 52 người Mỹ tại Đại sứ quán Mỹ trong 444 ngày. Nhưng mối nghi ngờ của họ cũng phản ánh những động thái sô vanh hiếu chiến và thiếu tầm nhìn về quan hệ Mỹ-Iran.

Rất ít người Mỹ biết rằng CIA đã lật đổ một chính phủ dân chủ ở Iran vào năm 1953. Người Iran đã cả gan bầu lên một vị thủ tướng tiến bộ, thế tục, và tin rằng dầu mỏ của nước này thuộc về người dân chứ không phải của Anh hay Mỹ. Cũng có rất ít người Mỹ nhớ rằng sau cuộc đảo chính, CIA đã cài đặt một nhà nước cảnh sát trị tàn bạo dưới thời Shah (tức vua Iran – NBT).

Tương tự, sau Cách mạng Iran năm 1979, Mỹ đã trang bị vũ khí cho Iraq của Saddam Hussein để gây chiến với Iran, khiến hàng trăm ngàn người Iran thiệt mạng trong những năm 1980. Và những lệnh cấm vận quốc tế do Mỹ dẫn đầu, áp dụng từ những năm 1990 trở đi, là nhằm làm Iran nghèo kiệt, mất ổn định, và cuối cùng là lật đổ chế độ Hồi giáo.

Hôm nay, những kẻ hiếu chiến đang cố gắng nhấn chìm Hiệp ước Vienna. Ả Rập Xê-út đang cạnh tranh gay gắt với Iran để giành uy quyền tối cao trong khu vực, nơi cuộc cạnh tranh địa chính trị hội tụ với sự ganh đua giữa hai dòng Hồi giáo Sunni và Shia. Israel, cường quốc hạt nhân duy nhất ở Trung Đông, muốn giữ thế độc quyền chiến lược của mình. Dường như những kẻ hiếu chiến ở Hoa Kỳ coi bất kỳ nhà nước Hồi giáo nào cũng đáng để lật đổ.

Obama đã đúng khi cho rằng lợi ích thực sự của Mỹ và của cả thế giới là đạt được hòa bình chứ không phải là tiếp tục chiến tranh với Iran. Mỹ không phải một bên tham gia vào cuộc cạnh tranh giữa hai dòng Hồi giáo Shia và Sunni; nếu có chăng nữa thì Mỹ chủ yếu cũng chỉ chống lại quân khủng bố Hồi giáo Sunni được Ả Rập Xê-út tài trợ; chứ không phải chống lại quân khủng bố Hồi giáo Shia được Iran hậu thuẫn. Obama cũng đúng khi cho rằng dù lập luận của Israel là gì đi chăng nữa thì thỏa thuận này cũng sẽ làm giảm khả năng Iran trở thành một nhà nước hạt nhân.

Cách tốt nhất để đảm bảo kết quả đó là việc bình thường hóa quan hệ với Iran, giúp kinh tế nước này phục hồi, và hỗ trợ họ hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Iran là một nền văn hóa lớn và có lịch sử lâu đời. Việc Iran mở cửa chào đón thế giới như một địa điểm kinh doanh, du lịch, nghệ thuật, và thể dục thể thao sẽ làm tăng sự ổn định và sự thịnh vượng cho toàn cầu.

Hiệp ước mới sẽ rạch ròi ngăn chặn Iran phát triển vũ khí hạt nhân trong ít nhất một thập niên – và sau đó giữ nước này bị ràng buộc bởi Hiệp ước không phổ biến hạt nhân. Đã đến lúc Mỹ và Iran nên xích lại gần nhau hơn và xây dựng một cơ chế an ninh mới ở Trung Đông và thế giới theo hướng giải trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân trên toàn cầu. Để đạt được những đòi hỏi đó thì trên hết phải thay thế chiến tranh (trong đó có cả các cuộc chiến tranh bí mật của CIA) bằng thương mại và các hình thức giao thiệp hòa bình khác.

Jeffrey D. Sachs là Giáo sư về Phát triển Bền vững, Chính sách và Quản lý Y tế, và là Giám đốc Viện Địa Cầu tại Đại học Columbia. Ông cũng đồng thời là Cố vấn đặc biệt của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc về Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Ông là tác giả các cuốn sách The End of Poverty, Common Wealth, và gần đây nhất là The Age of Sustainable Development.

Copyright: Project Syndicate 2015 – Saying No to the Warmongers